(TN&MT) - Một thầy giáo già sau nhiều lần cầm đơn gõ
cửa các cơ quan, các cấp chính quyền phản ánh việc cấp Giấy Chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và Quyền sở hữu đất ở(CNQSHNƠ&QSDĐƠ) cho nhà 30
Lê Lai sai quy trình, thay đổi hiện trạng đất ở, ảnh hưởng đến quyền và
nghĩa vụ của các hộ liền kề nhiều lúc rơi vào bế tắc khi nhiều lần bị
bác đơn khởi kiện. Tuy nhiên, cuối cùng vụ việc đã được sáng tỏ, chân lý
thuộc về lẽ phải qua Quyết định Giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán
TAND Tối cao do Chánh án Trương Hòa Bình ký. Suốt một chặng đường dài,
Báo Tài nguyên & Môi trường đã có hàng loạt bài viết về vụ việc này,
nay tiếp tục thông tin đến bạn đọc quyết định đầy sáng suốt và đúng đắn
của những người “cầm cân, nảy mực”.
Ông Phan Thanh Kế và bà Phan Thị Bạch Mai, trú tại 32 Lê Lai đã có Đơn
khởi kiện hủy Quyết định (QĐ) số 13744/QĐ-UB ngày 12/12/2001 của UBND
TP. Đà Nẵng V/v cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng
đất ở (CNQSHNƠ&QSDĐƠ) cho bà Huyền Tôn Nữ Thị Oai, trú tại 30 Lê Lai
và hủy một phần Quyết định số 8715/QĐ-UBND ngày 12/11/2010 của UBND TP.
Đà Nẵng V/v giải quyết phần diện tích đường luồng giữa 2 nhà số 30 và
32 Lê Lai; tuy nhiên tại Bản án sơ thẩm số 05/2012/HCST ngày 19/10/2012
của TAND TP. Đà Nẵng và Bản án phúc thẩm thẩm số 14/2013/HC-PT ngày
28/01/2013 của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng đều bác đơn khởi
kiện của ông Kế, bà Mai khiến ông Kế, bà Mai tiếp tục gửi đơn yêu cầu
kháng nghị theo thủ tục Giám đốc thẩm.
Đối với yêu cầu hủy QĐ số 13744/QĐ-UB ngày 12/12/2001 của UBND TP. Đà
Nẵng, tại Kháng nghị Giám đốc thẩm số 19/2013/KN-HC đối với Bản án hành
chính phúc thẩm số 14/2013/HC-PT do Phó Chánh án TAND Tối cao Nguyễn Sơn
ký và Quyết định Giám đốc thẩm số 03/2014/HC-GĐT của Hội đồng thẩm phán
TAND Tối cao do Chánh án Trương Hòa Bình ký đều nêu rõ, trong Văn tự
lập ngày 25/7/1975, bà Võ Thị Kim Sa bán 01 gian nhà thuộc nhà số 16 Lê
Lai cho bà Huyền Tôn Nữ Thị Oai có kích thước 4x17m, không ghi diện tích
sử dụng chung (được UBND cách mạng phường Thạch Thang, TP. Đà Nẵng
chứng thực). Qua Trích lục tạm thời ngày 03/11/1975 của Ty Quản lý nhà
đất và Công trình công cộng Quảng Đà và Trích lục họa đồ số 352/L249 tờ
bản đồ số 9 (cũ), tức tờ số 3 bản đồ số 9 (mới) thuộc khu phố Thạch
Thang, TP. Đà Nẵng, thể hiện tổng diện tích nhà đất của bà Oai là 91m2.
Trong Văn tự mua bán nhà ngày 20/4/1976, bà Võ Thị Kim Sa bán cho ông
Phan Thanh Kế ngôi nhà bề ngang 9m, bề sâu 14m, sân trước bề ngang 9m,
chiều dài 3,5m, cũng thuộc nhà số 16 Lê Lai (có chứng thực của UBND cách
mạng phường Thạch Thang và nộp trước bạ tại Phòng Thuế công thương
nghiệp Đà Nẵng, sang tên cải nghiệp tại Ban Nhà đất Đà Nẵng). Như vậy,
tổng diện tích nhà ông Kế là 9m x17,5m = 157,5m2.
Năm 2001, khi bà Oai lập thủ tục xin cấp giấy CNQSHNƠ&QSDĐƠ, các
tài liệu liên quan đã thể hiện: Biên bản ngày 26/9/2001 do Sở Địa chính -
Nhà đất (cũ) tiến hành để xác định hiện trạng, ranh giới, mốc giới thửa
đất, thì ghi bề ngang là 4,46m và thêm phần chung (chiếm vào sân sau,
phần hông và một phần sân trước nhà số 32 Lê Lai của ông Kế). Biên bản
tứ cận lập ngày 26/9/2001 có chữ ký của ông Tổ trưởng Tổ dân phố số 52
ghi ngày 25/9/2001 (tức ngày ký trước ngày lập biên bản) và trong biên
bản này không có chữ ký xác nhận của chủ nhà số 32 (ông Kế). Ngoài ra,
biên bản này có nêu: “Về phía Tây lấy tường nhà của chủ hộ làm ranh
giới”, nhưng khi đo vẽ bề ngang khu đất thể hiện 4,46m, vượt qua cả
tường nhà bà Hương và lấn vào phần đất nhà ông Kế 0,1 chiều ngang, cùng
chiều dài là 17,5m.
Việc UBND TP.Đà Nẵng đã dựa vào QĐ số 1014/QĐ-UB ngày 18/6/1996 và QĐ
số 1154/QĐ-UB ngày 13/3/1999 là các quyết định giải quyết tranh chấp
đường luồng giữa 2 nhà và Biên bản xác định hiện trạng ranh giới thửa
đất để cấp Giấy CNQSHNƠ&QSDĐƠ số 3401032470 ngày 12/12/2001 cho bà
Oai với tổng diện tích 100,3m2, không đối chiếu với những chứng từ gốc
xác định diện tích như đã nêu trên (91m2); bề ngang nhà từ 4,46m trong
biên bản nhưng trong giấy ghi tăng lên thành 4,56m và trang 2 của giấy
chứng nhận thể hiện phần diện tích sử dụng chung là 26,6m2 đất.
Các vấn đề nêu trên thể hiện việc thực hiện trình tự, thủ tục để cấp
giấy chứng nhận chưa đầy đủ, chính xác (thiếu chữ ký người sử dụng đất
liền kề, số liệu về diện tích đất không nhất quán, đất được cấp giấy
chứng nhận có phần đang tranh chấp chưa được giải quyết dứt điểm…), nên
việc UBND TP. Đà Nẵng cấp giấy chứng nhận nhà đất nêu trên đã làm ảnh
hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các hộ liền kề: Bề ngang đất nhà bà
Hương chồng lên đất nhà ông Kế khoảng hơn 0,2m và lấn chiếm khoảng không
bề ngang 0,3m phía nhà ông Chất (số 28 Lê Lai), đưa diện tích sử dụng
riêng từ 91m2 lên 100,3m2 đất là không có căn cứ.
Tại Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 21/8/2012 do TAND TP. Đà
Nẵng tiến hành thể hiện kết quả đo đạc: Bề ngang nhà ông Kế 8,97m (nếu
trừ hàng trụ bị bà Hương lấn khi xây nhà thì còn 8,77m) và khoảng cách
giữa 2 bức tường cũ của bà Hương là 4,02m. Kết quả này phù hợp với giấy
tờ mua bán nhà của ông Kế là 9m và nhà của bà Hương là 4m chiều ngang,
nhưng chênh lệch so với biên bản ngày 26/9/2001 nêu trên. Tuy nhiên, khi
giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã không
xem xét đến tình tiết này là có sai sót trong việc đánh giá chứng cứ.
Đồng thời lại cho rằng, việc UBND TP. Đà Nẵng đã căn cứ vào QĐ số
1014/QĐ-UB ngày 18/6/1996 và QĐ số 1154/QĐ-UB ngày 13/3/1999 giải quyết
tranh chấp giữa hộ ông Kế và bà Oai để cấp giấy chứng nhận cho bà Oai là
đúng pháp luật, là không chính xác. Bởi lẽ, nội dung hai quyết định này
là giải quyết việc ông Kế tự ý bao chiếm đường luồng sử dụng chung
(rộng khoảng 1m) giữa 2 nhà, mới nói các nhà sử dụng chung đường luồng,
chưa công nhận diện tích này cho ai. Mặt khác, việc công nhận đường
luồng là phần đất của chung cũng chưa hợp lý, vì theo văn tự mua bán gốc
thì phần đường luồng tuy có thời gian sử dụng chung, nhưng nằm trên
phần đất ông Kế mua của bà Sa; không có phần diện tích này trong Văn tự
mua bán giữa bà Oai và bà Sa.
Như vậy, việc cấp CNQSHNƠ&QSDĐƠ cho bà Oai tại số nhà 30 Lê Lai
không căn cứ vào giấy tờ nhà bà Oai, không căn cứ vào các giấy tờ gốc
được trích lục của các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai, mà lại căn
cứ vào hiện trạng sử dụng, trong khi phần hiện trạng lại chưa được chính
xác là không đúng quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Đất đai năm 1993.
Đối với yêu cầu hủy một phần QĐ số 8715/QĐ-UBND ngày 12/11/2010 V/v
giải quyết phần diện tích đường luồng giữa 2 nhà 30 và 32 Lê Lai với nội
dung QĐ như sau: Phần diện tích đất tính từ da tường nhà bà Trần thị
Thanh Hương (bà Hương thừa kế bà Oai-PV) (sau khi đã tô tường xong theo
GPXD) về phía Tây giao cho hộ ông Phan Thanh Kế. Theo Kháng nghị Giám
đốc thẩm số 19/2013/KN-HC và Quyết định Giám đốc thẩm số 03/2014/HC-GĐT
của TAND Tối cao thì QĐ số 8715/QĐ-UBND không thi hành được vì không
thỏa mãn 2 gia đình; vả lại, giao cho ông Kế sử dụng đất sát tường nhà
bà Hương lấy thẳng, vậy phần móng tường nhà bà Hương và hàng cột ra thêm
20cm trên phần đất giao cho ông Kế thì tính thế nào? Ngoài ra, UBND
Thành phố cần làm rõ căn cứ pháp lý để bà Hương được thay (thừa kế) bà
Oai khi xin GPXD và tranh chấp với ông Kế (nếu với tư cách chủ hộ thay
bà Oai đã chết thì được), tránh trường hợp giải quyết với bà Hương sau
đó lại có các đồng thừa kế khác của bà Hương tranh chấp.
Như vậy, khi xét xử sơ thẩm TAND TP. Đà Nẵng chưa làm rõ phần diện
tích có trong quyết định bị khiếu kiện, nhận định chưa đúng bản chất vụ
án, không xác minh, đối chiếu phần diện tích giữa văn tự mua bán nhà gốc
với diện tích đo đạc thực tế để giải quyết vụ án một cách tòan diện, đã
xử bác yêu cầu khởi kiện của ông Kế, bà Mai là không phù hợp với các
tình tiết khách quan của vụ án, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự.
Vì vậy, cần phải hủy bản án phúc thẩm để giải quyết lại vụ án theo
hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Kế và bà Mai, hủy QĐ số
13744/QĐ-UB ngày 12/12/2001 của UBND TP. Đà Nẵng V/v cấp giấy
CNQSHNƠ&QSDĐƠ cho nhà 30 Lê Lai và QĐ số 8715/QĐ-UBND ngày
12/11/2010 của Chủ tịch UBND TP. Đà Nẵng V/v giải quyết phần diện tích
đường luồng giữa 2 nhà số 30 và 32 Lê Lai.
Từ đó, Quyết định của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao như sau: Chấp
nhận Kháng nghị số 19/2013/KN-HC ngày 31/10/2013 của Chánh án TAND Tối
cao; Hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 14/2013/HC-PT ngày 28/01/2013
của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng và giao hồ sơ vụ án cho Tòa
phúc thẩm TAND tối cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy
định của pháp luật.
Một quyết định đúng đắn của TAND Tối cao hợp tình, hợp lý và thể hiện công lý được thực thi, chân lý luôn thuộc về lẽ phải.
Bài và ảnh: HỒNG XUÂN
Nguồn: Báo TNMT Online (Bộ TN&MT)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét